Một số vấn đề về quyền riêng tư trong quy định của Luật Báo chí - thực trạng và kiến nghị hoàn thiện

ThS. Nguyễn Sơn Tùng, Trịnh Nam Anh | 09/06/2023, 11:24

ThS. Nguyễn Sơn Tùng, Trịnh Nam Anh

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN RIÊNG TƯ TRONG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT BÁO CHÍ - THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

ThS. Nguyễn Sơn Tùng , Khoa Pháp luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội

Trịnh Nam Anh, Sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội

Tóm tắt: Bài viết đánh giá thực trạng và đưa ra kiến nghị hoàn thiện những quy định về quyền riêng tư trong pháp luật báo chí tại Việt Nam. Nhóm tác giả xác định khái niệm và ý nghĩa của quyền riêng tư, đánh giá thực trạng xâm phạm quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam. Báo chí được quyền tự do đưa tin đó là nguyên tắc nền tảng trong xã hội dân chủ nhưng phạm vi, phương thức của việc đưa tin phải tuân thủ những quy định pháp luật và đạo đức sao cho đảm bảo không xâm hại quyền riêng tư của cá nhân. Tuy nhiên trong thực tế, một bộ phận nhà báo bất chấp những nguyên tắc của báo chí sử dụng những thiết bị nghe lén, ghi hình lén, theo dõi để có được thông tin mình cần. Họ đôi khi bất chấp những nguyên tắc nghề nghiệp mà đăng tải những thông tin chưa chính xác, không chính xác thậm chí xuyên tạc, phóng đại gây nên nhiều phiền hà cho đối tượng bị lộ thông tin. Thực tại đó đã đặt ra một vấn đề phải có những quy định vạch ra ranh giới cho báo chí, phân định giữa sự tự do báo chí và quyền riêng tư của cá nhân., Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật khá đầy đủ và hoàn thiện về việc bảo vệ quyền bí mật đời tư. Nhưng pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư còn một số điểm hạn chế dẫn tới tình trạng quyền riêng tư bị xâm phạm vẫn còn xảy ra ở mức độ cao. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số kiến nghị sửa đổi bổ sung hệ thống pháp luật bảo vệ quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam.nhân

Trong xu thế mở cửa hội nhập quốc tế, sự phát triển của thời đại công nghệ thông tin đã dẫn đến nhiều sự thay đổi trong cuộc sống của con người. Bên cạnh những thay đổi tích cực như chất lượng cuộc sống được nâng cao, các phương tiện phục vụ quá trình thu thập tư liệu, tiếp cận điều tra sự việc ngày càng hiện đại thì không thể tránh khỏi những hệ quả tiêu cực đang xâm phạm trực tiếp đến quyền riêng tư; một trong số đó là tình trạng xâm phạm quyền riêng tư trên báo chí.

Nghiên cứu về quyền riêng tư trong một lĩnh vực báo chí là một nội dung còn khá mới mẻ trong khoa học pháp lý Việt Nam và trên thế giới. Tuy nhiên, cần thiết đặt ra nghiên cứu trong lĩnh vực báo chí bởi lẽ, trong thời buổi tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và bùng nổ thông tin đại chúng như hiện nay, báo chí là một vấn đề mang tính thời sự hết sức nóng bỏng và có tác động rất lớn đến mọi mặt xã hội. Báo chí là một lĩnh vực mà việc sử dụng thông tin, dữ liệu, hình ảnh của cá nhân trong đăng bài, đưa tin là một hoạt động thuộc về chuyên môn nghiệp vụ. Pháp luật cho phép cơ quan báo chí được phép tự do trong đưa tin để đáp ứng quyền được thông tin của người dân. Quyền riêng tư là quyền nhân thân cơ bản của cá nhân, tuy nhiên phạm vi quyền này cũng bị pháp luật hạn chế trong một số trường hợp. Vậy đâu là ranh giới giữa quyền tự do báo chí, tự do thông tin và tự do ngôn luận trên báo chí với quyền riêng tư của cá nhân, pháp nhân trong lĩnh vực báo chí? Vì vậy, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu, tìm hiểu thực tế xã hội, tìm hiểu pháp luật để có thể đưa ra những kiến nghị sửa đổi bổ sung Luật Báo chí nhằm bảo vệ quyền riêng tư trong một lĩnh vực cụ thể một cách chuyên biệt, hiệu quả.

1. Tổng quan về quyền riêng tư :

1.1. Khái niệm quyền riêng tư

Trong luận án tiến sĩ của mình về Quyền bí mật đời tư, tác giả Lê Đình Nghị đã bàn luận và đưa ra quan điểm liên quan đến quyền riêng tư. Tác giả Lê Đình Nghị nhận định: Quyền riêng tư được hiểu là quyền được sống như mong muốn của mỗi cá nhân mà không chịu ảnh hưởng của bất kỳ chủ thể nào khác. Cá nhân có thể sinh hoạt theo sở thích trong một môi trường và không gian riêng của mình, tự do lựa chọn cách sống, cách sinh hoạt, ăn mặc,…[1]

Tiến sĩ Thái Thị Tuyết Dung lại cho rằng: “Quyền riêng tư là quyền cá nhân được phép giữ kín thông tin, tư liệu, dữ liệu gắn với cuộc sống riêng tư của mình, quyền bất khả xâm phạm về thân thể về nơi ở, thư tín, điện thoại và các thông tin điện tử khác nhau mà không một chủ thể nào có quyền tiếp cận công khai trừ trường hợp được chính người này hoặc bằng quyền quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Quan điểm của Tiến sĩ Thái Thị Tuyết Dung có chỉ ra được những nội dung của Quyền riêng tư, phù hợp với nhận thức về quyền riêng tư trên bình diện quốc tế, tuy nhiên định nghĩa mà bà đưa ra chỉ mới là sự liệt kê các quyền năng gần gũi với đời sống riêng tư mà chưa có sự các quyền năng này qua đó nêu được bản chất của quyền riêng tư.

Quyền riêng tư được xây dựng dựa trên kết hợp hai yếu tố:

- Yếu tố quyền: Quyền là “điều mà pháp luật và xã hội công nhận, cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi[2]”.Quyền riêng tư mang các nét đặc trưng cơ bản của con người từ khi sinh ra, đại diện cho giá trị con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người. Quyền riêng tư không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả cơ quan nhà nước. Mọi giới hạn, hạn chế hay tước bỏ quyền của một cá nhân đều phải do pháp luật quy định và chỉ nhằm để bảo vệ lợi ích chính đáng tương xứng của cộng đồng hay của cá nhân khác. Quyền riêng tư có tầm quan trọng ngang với các quyền con người khác bởi lẽ việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.

- Yếu tố riêng tư: Quyền riêng tư cá nhân mang những yếu tố riêng tư cá nhân. Riêng tư được hiểu là “riêng của từng người, của từng cá nhân”[3], những vấn đề của riêng cá nhân đó và cá nhân ấy hoàn toàn có quyền lựa chọn chia sẻ hoặc không chia sẻ thông tin với người khác. Như vậy, sự quyết định chia sẻ hoặc cho phép người khác sử dụng thông tin hoặc các vấn đề khác liên quan đến những vấn đề riêng tư này hoàn toàn thuộc về chính cá nhân đó. Nét đặc trưng của yếu tố riêng tư là các thông tin này không ảnh hưởng đến đời sống của các chủ thể khác và không ảnh hưởng đến cộng đồng, Nhà nước.

Qua những phân tích nêu trên, nhóm tác giả đưa ra định nghĩa về quyền riêng tư như sau: “Quyền riêng tư là quyền bất khả xâm phạm của cá nhân đối với: thân thể, thông tin cá nhân, bí mật cá nhân, hình ảnh, thư tín, công việc cá nhân. Trong phạm vi không gian riêng tư của mình, cá nhân không phải chịu bất cứ sự can thiệp, tiếp cận bất hợp pháp đối với các yếu tố riêng tư. Cá nhân có quyền tự do trong không gian riêng tư của mình. Cá nhân có thể lựa chọn việc công khai hoặc không công khai các nội dung thuộc về đời sống riêng tư, lựa chọn thời điểm, nội dung, phương thức của việc chia sẻ, công khai thông tin thuộc về đời sống riêng tư nếu muốn. Quyền riêng tư chỉ bị hạn chế trong trường hợp mà việc xâm phạm không gian riêng tư nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, cộng đồng, hoặc của những người khác mà những lợi ích đó quan trọng hơn chủ thể quyền”.

1.2. Ý nghĩa của quyền riêng tư

Một số học giả Việt Nam tiếp cận vấn đề này mang tính pháp lý hơn là thiên về góc độ tâm lý học. Theo tác giả Lê Đình Nghị, khi đề cập đến ý nghĩa của việc quy định quyền riêng tư cho cá nhân, ông cho rằng việc này có 4 ý nghĩa:

Thứ nhất, việc ghi nhận các quyền riêng tư trong Bộ luật Dân sự là sự khẳng định của Nhà nước trong việc tôn vinh và bảo vệ các giá trị tinh thần của con người. Dưới góc độ pháp lý, việc ghi nhận các quyền riêng tư thể hiện sự phát triển hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Con người là trọng tâm cần được bảo vệ, xã hội càng phát triển thì những giá trị tinh thần của con người càng được chú trọng.

Thứ hai, quy định về quyền riêng tư là cơ sở để cá nhân thực hiện các quyền của mình.

Thứ ba, việc quy định về quyền riêng tư là cơ sở để các cơ quan tư pháp, cơ quan hành pháp bảo vệ quyền lợi và lợi ích của cá nhân.

Thứ tư, quy định về quyền riêng tư còn là cơ sở để tăng cường hội nhập quốc tế.[4]

Như vậy, tựu trung lại cần khẳng định rằng sự tồn tại của những quy định bảo vệ quyền riêng tư là cần thiết, không chỉ cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân mà còn cho sự tiến bộ chung của toàn xã hội. Quyền riêng tư có ý nghĩa trong việc định hình cá tính có ý nghĩa trong việc định hình cá tính, tính cách của cá nhân, tăng cường khả năng tập trung và học hỏi của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân là hạt nhân của xã hội, mỗi cá nhân càng độc lập tự chủ và sáng tạo thì xã hội càng phát triển.

2. Thực trạng quy định và thực hiện pháp luật báo chí liên quan đến quyền riêng tư

2.1. Thực trạng tự do báo chí và quyền riêng tư:

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, báo chí càng ngày càng phát triển và đi sâu vào mọi ngóc ngách của đời sống, đóng góp nhiều vào sự phát triển chung của xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực báo chí đôi khi cũng bộc lộ những mặt trái nhất định. Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà tại nhiều quốc gia trên thế giới, chức năng giải trí của báo chí được tập trung quá mức, vượt lên trên các chức năng khác. Nhà báo không đầu tư vào chất lượng thông tin của bài viết mà chỉ nhằm vào đăng tải các thông tin giật gân, câu khách thậm chí có phần lố lăng. Để phục vụ đích của mình, các nhà báo luôn cố gắng tiếp cận săn lùng tin tức từ những người nổi tiếng, chính khách được xã hội quan tâm. Họ bất chấp những nguyên tắc của báo chí sử dụng những thiết bị nghe lén, ghi hình lén, theo dõi để có được thông tin mình cần. Họ đôi khi bất chấp những nguyên tắc nghề nghiệp mà đăng tải những thông tin chưa chính xác, không chính xác thậm chí xuyên tạc, phóng đại gây nên nhiều phiền hà cho đối tượng bị lộ thông tin. Thực tại đó đã đặt ra một vấn đề phải có những quy định vạch ra ranh giới cho báo chí, phân định giữa sự tự do báo chí và quyền riêng tư của cá nhân. GS,TS. Tạ Ngọc Tấn nhấn mạnh: “Ranh giới xác định rất khó, giữa sự thật khách quan với việc bảo vệ quyền con người. Kể cả vấn đề nhân vật đồng ý cho báo chí phỏng vấn đưa tin lên nhưng việc đưa tin như thế nào để bảo vệ quyền lợi, lợi ích, quyền con người đấy cũng là vấn đề mang tính trách nhiệm của người làm báo với công chúng. Hội thảo lần này tôi mong rằng mỗi người sẽ chia sẻ những kinh nghiệm của mình từ đó mỗi nhà báo đều rút ra được bài học, phát huy được những giá trị nghề và góp phần bảo vệ nâng cao tầm vóc giá trị của mỗi con người Việt Nam” [5]Báo chí được quyền tự do đưa tin đó là nguyên tắc nền tảng trong xã hội dân chủ nhưng phạm vi, phương thức của việc đưa tin phải tuân thủ những quy định pháp luật và đạo đức sao cho đảm bảo không xâm hại quyền riêng tư của cá nhân.

2.2. Quy định về quyền riêng tư liên quan đến hoạt động báo chí trong pháp luật hiện nay

2.2.1 Bảo vệ quyền riêng tư khi đăng tải thông tin cá nhân trên báo chí

Với tính chất đặc thù của nghề nghiệp, báo chí là lĩnh vực có liên quan nhiều nhất đến bí mật đời tư cá nhân, đồng thời cũng là lĩnh vực mà việc xâm phạm bí mật đời tư cá nhân xảy ra một cách thường xuyên, như một sự việc hiển nhiên của ngành, thậm chí việc xâm phạm bí mật đời tư là một việc không thể thiếu nếu muốn có một bài báo “giật gân”, “nổi”, thu hút dư luận chú ý. Và những người bị báo chí xâm phạm bí mật đời tư phần lớn là những người nổi tiếng, bên cạnh đó thì mỗi cá nhân đều dễ dàng trở thành đối tượng bị xâm phạm bí mật đời tư trong giới báo chí. Do đó, bên cạnh Bộ luật dân sự 2015, Luật Báo chí 2016 cũng có những điều khoản nhằm bảo vệ quyền riêng tư thông qua việc cấm tiết lộ thông tin về bí mật đời tư của cá nhân, cấm thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân.

Khi báo chí công khai những hình ảnh cá nhân, bí mật đời tư, có nhiều phản ứng trái chiều. Nhưng hầu như không ai đồng tình với việc thông tin cá nhân, bí mật của mình được đăng tải trên báo chí, được nhiều người biết đến, dù là tốt đẹp nhưng đó là những điều không mong muốn công khai.

Đối với những hành vi vi phạm quyền riêng tư khi khai thác bí mật hoặc hình ảnh cá nhân trên các tác phẩm báo chí, Luật Báo chí năm 2016 quy định việc cải chính thông tin tại Điều 42: “Cơ quan báo chí thông nếu đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, to chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì phải đăng, phát lời cải chính, xin lỗi trên báo chí và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.

Đối với báo chí điện tử, ngoài việc đăng, phát lời cải chính, xin lỗi còn phải gỡ bỏ ngay thông tin sai sự thật đã đăng, phát nhưng phải lưu giữ nội dung thông tin trên máy chủ để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định.

Cơ quan báo chí phải đăng, phát phần nội dung kết luận đó và nội dung cải chính, xin lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả tác phẩm báo chí nếu có văn bản kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vụ việc mà báo chí đã đăng, phát là sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Và lời xin lỗi của cơ quan báo chí, tác giả tác phẩm báo chí được đăng, phát liền sau nội dung thông tin cải chính.

Việc đăng, phát thông tin cải chính, xin lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả tác phẩm phải thực hiện theo quy định sau đây: i) Đăng, phát tại trang hai đối với báo in, trang cuối đối với tạp chí in, chuyên Mục riêng tại trang chủ đối với báo điện tử với cùng một kiểu chữ, cỡ chữ mà báo chí đã đăng, phát thông tin; ii) Đăng, phát đúng chuyên Mục, giờ phát sóng, số lần phát sóng đối với báo nói, báo hình mà báo chí đã đăng, phát thông tin. Việc đăng, phát thông tin cải chính, xin lỗi, cơ quan báo chí phải thể hiện đầy đủ các nội dung như: Tiêu đề: “Thông tin cải chính, xin lỗi”. Tên tác phẩm báo chí, tên chuyên Mục, số báo, ngày, tháng, năm đã đăng, phát phải cải chính; Những thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân đã đăng, phát trong tác phẩm báo chí và nội dung thông tin được cải chính.

Sau khi thực hiện cải chính, xin lỗi, Cơ quan báo chí có trách nhiệm thông báo cho các cơ quan báo chí và trang thông tin điện tử tổng hợp có thỏa thuận về việc sử dụng tin, bài của báo mình để thực hiện việc đăng lại lời cải chính, xin lỗi.

Đồng thời áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính theo Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản về các mức phạt khi vi phạm quy định về nội dung thông tin.

2.2.2. Hành vi xâm phạm quyền riêng tư khi sử dụng hình ảnh, thông tin bí mật cá nhân

Trong hoạt động báo chí cũng như trong việc tiếp nhận thông tin từ báo chí, xã hội luôn nhìn nhận, đánh giá một cá nhân thông qua những thông tin, hình ảnh của cá nhân đó mà họ nhận được thông qua các kênh báo chí, truyền thông chính thống. Chính vì vậy, hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi cá nhân. Pháp luật nhiều nước trên thế giới cũng như trong pháp luật Việt Nam đều đặt ra quyền của cá nhân đối với hình ảnh, theo đó, thừa nhận hình ảnh của cá nhân được bảo vệ dưới bất cứ hình thức nào (tranh vẽ, ảnh chụp, hình ảnh trên truyền hình hay Internet...). Pháp luật chỉ bảo vệ quyền cá nhân đối với những hình ảnh mà thông qua việc xem hình ảnh, người xem có thể nhận dạng và xác định được danh tính cá nhân đó. Trong nhiều trường hợp, hình ảnh của cá nhân chỉ cần có những điểm nhận dạng cá nhân (nốt ruồi, hình thái đặc trưng của khuôn mặt, tóc...) mà không cần phải phải có hình ảnh khuôn mặt và ghi rõ họ tên người trong ảnh thì mới nhận dạng được cá nhân đó. Có thể thấy, hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một quy định nào đưa ra định nghĩa về khái niệm quyền riêng tư đối với hình ảnh. Ngay cả trong Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định trực tiếp về quyền của cá nhân đối với hình ảnh cũng chỉ quy định chung chung “Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình” mà không chỉ ra cụ thể quyền riêng tư đối với hình ảnh là gì. Tuy nhiên, qua nội dung của các điều luật có liên quan như Điều 25 hay Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì có thể hiểu quyền riêng tư của cá nhân đối với hình ảnh là “quyền riêng tư gắn liền với cá nhân được pháp luật quy định và bảo vệ, liên quan đến việc sử dụng và cho phép sử dụng hình ảnh của chính cá nhân đó”.

Quyền riêng tư đối với hình ảnh là một trong những quyền nhân thân của cá nhân. Do đó, quyền này mang đầy đủ các đặc điểm chung của quyền nhân thân, là quyền thuộc về cá nhân, mang tính chất cá nhân và luôn gắn với một cá nhân xác định. Quyền đối với hình ảnh được ghi nhận và điều chỉnh trong pháp luật dân sự từ khi họ sinh ra và không thể bị trưng mua hay chuyển giao cho người khác. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng để phân biệt với một số quyền riêng tư thuộc về chủ thể khác không phải là cá nhân.

Quyền riêng tư đối với hình ảnh thuộc nhóm quyền tuyệt đối, được bảo vệ một cách tuyệt đối, bất kỳ chủ thể nào khác cũng không được xâm phạm và được bảo vệ theo yêu cầu của chủ thể quyền. Bất kỳ hành vi xâm phạm quyền riêng tư nào cũng phải chịu một trách nhiệm pháp lý. Việc cá biệt hóa chủ thể trong quan hệ pháp luật có ý nghĩa lớn trong việc xác định rõ quyền, nghĩa vụ của mỗi chủ thể cũng như trách nhiệm pháp lý của chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng. Khoản 3, Điều 32. của Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật”. Theo đó, người sử dụng hình ảnh cá nhân bất hợp pháp gây ảnh hưởng danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ phải bồi thường thiệt hại gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, thiệt hại khác do luật quy định và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại đã gánh chịu theo Điều 592 của Bộ luật dân sự 2015.

Ngoài việc phải bồi thường thiệt hại, người sử dụng thông tin, hình ảnh mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác trên mạng xã hội sẽ có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 theo điểm e, khoản 3, Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ- CP “Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật”

Không chỉ được bảo vệ bởi Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Báo chí 2016, quyền riêng tư của cá nhân còn được bảo vệ bởi Bộ luật Hình sự 2015 với quy định về tội danh làm nhục người khác như sau: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù tùy theo mức độ phạm tội”. Theo đó, khi hình ảnh của cá nhân bị sử dụng bất hợp pháp, xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người bị đăng ảnh thì người đó có khả năng sẽ bị áp dụng các chế tài nêu trên theo Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 .

Khi quyền riêng tư đối với hình ảnh bị xâm phạm, các cơ quan hữu quan chỉ can thiệp khi có yêu cầu của người có quyền bị xâm phạm hoặc của những người liên quan. Chủ thể có quyền yêu cầu can thiệp có thể là cá nhân có quyền bị xâm phạm hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên... của người đó trong các trường hợp theo quy định của pháp luật phải là người tự xác định và đánh giá xem hành vi tác động của chủ thể khác đối với hình ảnh của mình có xâm phạm đến quyền hay không và mức độ ảnh hưởng của việc xâm phạm phạm đó do quyền riêng tư đối với hình ảnh có đặc điểm mang giá trị tinh thần, không xác định trị giá được bằng tiền. Khi có yêu cầu bảo vệ, Nhà nước có thể thông qua cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.

Quá trình tác nghiệp, nhà báo đưa nội dung tin bài có sử dụng hình ảnh cá nhân, họ, tên, bí mật cá nhân của người được đề cập trong nội dung bài. Việc sử dụng hình ảnh, thông tin cá nhân phải xin phép người đó, phải được người đó đồng ý. Nếu việc sử dụng hình ảnh, thông tin cá nhân của người khác mà không xin phép, người có hình ảnh, thông tin bị sử dụng có quyền yêu cầu gỡ bỏ hình ảnh, thông tin; Quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin xấu; Quyền yêu cầu cải chính công khai, hủy bỏ thông tin sai; Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Trừ khi hình ảnh, họ, tên, bí mật cá nhân do cá nhân đó tự cung cấp hoặc việc tiết lộ, sử dụng thông tin về cá nhân, gia đình nhằm mục đích bảo vệ hoặc mang lại quyền lợi lớn hơn cho cá nhân đó. Việc tiết lộ, sử dụng thông tin phải đảm bảo tôn trọng và không xâm phạm quyền đối với đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của tất cả các thành viên gia đình.

Trong thực tiễn hành nghề báo, vẫn xảy ra một số trường hợp như: đăng tải, bị phát tán những bức hình, cảnh quay riêng tư, nó thuộc đời sống sinh hoạt riêng tư của một người hoặc mặc dù là những hình ảnh bình thường nhưng cá nhân thực hiện vào việc bảo mật những bức ảnh đó thì việc công bố phát tán những bức ảnh, cảnh quay đó, hành vi này là xâm phạm tới bí mật cá nhân, đời sống riêng tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Đối với trẻ em, theo Luật Trẻ em năm 2016, quy định muốn đưa thông tin, hình ảnh về trẻ em dưới 7 tuổi phải được sự đồng ý của bố mẹ hoặc người giám hộ. Còn trường hợp trẻ em từ 7 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của chính các em. Có thể do vô tình hoặc cố ý, những hình ảnh, thông tin đó khi đăng tải, phát tán đã không có sự đồng ý của chủ thể bức ảnh.

2.2.3. Các hành vi trong hoạt động báo chí xâm phạm quyền riêng tư đối với các thông tin bí mật cá nhân làm ảnh hưởng uy tín, danh dự, nhân phẩm

Các quy định hiện hành mới tập trung điều chỉnh việc bảo vệ thông tin cá nhân trên môi trường mạng (hoặc môi trường không gian mạng), chưa có quy định cụ thể về bảo vệ thông tin cá nhân trong môi trường báo chí. Điều này tạo ra sự chia cắt trong điều chỉnh pháp luật giữa không gian thực và không gian ảo, không phù hợp với thực tiễn có sự hòa trộn, kết nối một cách khó phân tách giữa không gian thực và không gian ảo của thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay.

Pháp luật bảo vệ quyền riêng tư cá nhân còn chưa bắt kịp được với thực tiễn sử dụng các dữ liệu cá nhân như dữ liệu về hình ảnh cá nhân (công nghệ nhận diện khuôn mặt),… Các văn bản pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân chưa dự liệu tới những tình huống thực tế trong thu thập, xử lý thông tin cá nhân như: Việc thu thập và xử lý thông tin cá nhân là trẻ em cần lấy ý kiến đồng ý của những ai, việc chuyển thông tin cá nhân xuyên biên giới cần được kiểm soát như thế nào, việc vô danh hóa thông tin cá nhân để sử dụng phải chịu những ràng buộc pháp lý nào...

Thực trạng trên các phương tiện báo chí trong những năm trở lại đây đã tồn tại nhiều thông tin làm lộ bí mật đời tư của một cá nhân, làm lộ bí mật của một gia đình... hoàn toàn nằm ngoài ý chí chủ quan của cá nhân và những gia đình bị lộ bí mật thông tin. Có thể lý giải đây là hệ quả của nhiều phóng viên, nhà báo, cộng tác viên đã không hiểu, hiểu sai hoặc cố tình không hiểu quyền tự do ngôn luận, tự do thể hiện quan điểm cá nhân, tự do báo chí, vì trục lợi hay do lợi ích nhóm... vì vậy, đã vô tình hay hữu ý làm lộ quyền riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của chủ thể khác, đã gây ra những phản ứng trái chiều trong xã hội. Tiếp nhận những thông tin như vậy, với cái nhìn và nhận thức lệch chuẩn của một bộ phận không nhỏ trong cộng đồng tạo thành dư luận xã hội lan truyền nhanh chóng; gây nhiễu và lệch hướng cho một số bộ phận người thiếu thận trọng hoặc không trải nghiệm cuộc sống và hạn chế về nhận thức đã bị các luồng dư luận lôi kéo và nhấn chìm, mất phương hướng điều khiển hành vi trong các quan hệ xã hội. Đó chính là sự vi phạm nghiêm trọng đến quyền riêng tư, bí mật đời tư trong quá trình hoạt động tác nghiệp báo chí. Việc tiếp cận và công khai các thông tin này là một quá trình mà trong quá trình đó, người chủ động khai thác các thông tin nằm ngoài ý chí chủ quan của đối tượng sẽ dùng mọi biện pháp nghiệp vụ như chụp lén, ghi âm, tiếp cận các thông tin không chính thống. Khi tác nghiệp báo chí, nhà báo có quyền xin phép và thực hiện ghi âm. Việc tự ý ghi âm hiện nay pháp luật chưa có quy định cấm không được thực hiện việc ghi âm các cuộc trao đổi, phỏng vấn, điều tra... Việc ghi âm có thể được tiến hành để nhằm cung cấp nội dung chứa đựng chứng cứ chứng minh các tình tiết có ý nghĩa trong việc giải quyết các tranh chấp hoặc làm rõ các sự kiện pháp lý trong quá trình tố tụng. Nhưng nếu người có hành vi ghi âm sử dụng nội dung ghi âm được vào những mục đích khác như đe dọa nhằm mục đích riêng hoặc nhằm gây tổn hại tới danh dự, nhân phẩm, hạ thấp uy tín của người khác, xúc phạm người khác, tiết lộ bí mật cá nhân hoặc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp... của người khác, thì việc tiến hành ghi âm để thực hiện các mục đích nêu trên là hành vi trái pháp luật. Hậu quả pháp lý đối với người thực hiện lúc này sẽ dựa trên quy định pháp luật hiện hành và các thiệt hại thực tế xảy ra, cơ quan nhà nước xem xét tính chất và hậu quả hành vi để áp dụng biện pháp xử lý cũng như hình phạt thỏa đáng theo quy định pháp luật.

Bên cạnh đó, hành vi “ghi âm” cuộc gọi điện thoại là trái pháp luật tại thời điểm người thực hiện thực hiện hành vi này mà không được sự đồng ý của người tham gia đàm thoại sẽ được coi là hành vi vi phạm. Hành vi ghi âm trái pháp luật sẽ bị xử phạt từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng căn cứ Điều 102, khoản 3, điểm q, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi 2017 cũng quy định về việc xử lý hình sự đối với hành vi “Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật” tại điểm c, khoản 1, Điều 159 quy định người nào thực hiện hành vi “Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật” mà trước đó đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20 triệu đến 50 triệu đồng, hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Trong trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều 159 Bộ luật Hình sự: Có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Phạm tội 02 lần trở lên; Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; Làm nạn nhân tự sát, thì người phạm tội có thể bị phạt tù cao nhất đến 03 năm.

Để xử lý các vi phạm quyền riêng tư đối với các thông tin cá nhân, Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về quyền con người gồm các quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là chuẩn mực pháp lý, là căn cứ viện dẫn để giải quyết các tranh chấp dân sự liên quan đến các hành vi trái pháp luật, hành vi cố ý xâm phạm đến quyền về đời sống riêng tư của cá nhân, bí mật cá nhân và bí mật gia đình. Khoản 2 Điều 46 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Điều 16 Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 quy định nguyên tắc bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng, theo đó: “1. Cá nhân tự bảo vệ thông tin cá nhân của mình và tuân thủ quy định của pháp luật về cung cấp thông tin cá nhân khi sử dụng dịch vụ trên mạng. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá nhân có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin mạng đối với thông tin do mình xử lý”. Điều 159 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định việc xử phạt như sau: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào; b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông; c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật; d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật; đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác...”. Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Tại Điều 17 Công ước khẳng định: “1. Không ai bị can thiệp một cách độc đoán và bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín; hoặc bị xúc phạm một cách bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. 2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại mọi sự can thiệp và xúc phạm như vậy”.

Như vậy, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật khá đầy đủ và hoàn thiện về việc bảo vệ quyền bí mật đời tư. Nhưng pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư còn một số điểm hạn chế. Chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với chủ thể có hành vi sai trái trong việc thu thập và sử dụng thông tin cá nhân. Đây cũng là khoảng trống pháp lý cần được xử lý. Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 mới chỉ có một số quy định bước đầu tại Điều 159 về tội “Xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác” và Điều 288 về tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông”. Tuy nhiên, 02 tội danh này chưa quy định cụ thể, trực tiếp về các hành vi vi phạm pháp luật liên quan tới thông tin cá nhân đang diễn ra hiện nay.

3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí

3.1. Cần bổ sung quy định pháp luật giải thích các thuật ngữ về quyền riêng tư

Việc bổ sung các quy định của pháp luật dân sự giải thích thống nhất các thuật ngữ quyền riêng tư là vấn đề cấp thiết để ghi nhận và bảo vệ quyền riêng nói chung và quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí nói riêng. Như đã đề cập, quy định của pháp luật dân sự Việt Nam còn chưa thống nhất về cách hiểu thế nào là bí mật đời tư, hình ảnh là gì, đã gây không ít khó khăn cho việc xác định phạm vi quyền riêng tư mà chủ thể được hưởng và việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình khi bị xâm hại.

Nên bổ sung quy định tại Điều 38 Bộ luật Dân sự theo hướng giải thích bí mật đời tư chi tiết như sau: “Bí mật đời tư là những thông tin, tài liệu có liên quan về đời sống riêng tư của mỗi cá nhân mà người đó không muốn tiết lộ dưới bất kỳ hình thức nào trong quá khứ, hiện tại và trong tương lai”. Với cách giải thích thống nhất, chi tiết như vậy tại Bộ luật Dân sự - bộ luật gốc - có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc bảo vệ, ghi nhận quyền đối với bí mật đời tư của cá nhân và tránh được những hạn chế về việc cung cấp, công bố bí mật riêng tư đó của cá nhân cả trong quá khứ, hiện tại và khi họ đã chết đi trong mọi lĩnh vực trong đó bao hàm cả lĩnh vực báo chí. Bổ sung quy định giải thích hình ảnh của cá nhân tại Điều 31 như sau: “Hình ảnh cá nhân là những đặc điểm biểu hiện ra bên ngoài, được ghi nhận lại thông qua các phương tiện lưu trữ, sao chép có tác động đến thị giác cũng như trí óc của người khác để qua đó có thể nhận dạng được cá nhân này với các cá nhân khác” Từ cách hiểu thống nhất như vậy, sẽ thuận lợi cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật về quyền cá nhân đối với hình ảnh nói chung, trong lĩnh vực phản ánh báo chí nói riêng. Đặc biệt, chủ thể quyền sẽ tự xác định được đâu là hình ảnh cá nhân được pháp luật ghi nhận để có biện pháp bảo vệ phù hợp trước các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của mình.

3.2. Cần thiết có sự thống nhất của pháp luật về mối quan hệ giữa Luật Dân sự và Luật Báo chí

Để tạo ra sự thống nhất giữa Luật chung và Luật chuyên ngành, thì Bộ Luật dân sự và Luật Báo chí cũng nên có những thay đổi cho phù hợp. Cụ thể nhất là quyền riêng tư của cá nhân đối với hình ảnh trong hai luật. Hiện nay, ở Bộ Luật dân sự quy định các ngoại lệ mà việc sử dụng hình ảnh cá nhân không cần thiết có sự đồng ý đó là “trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác”. Các trường hợp mà pháp luật quy định khác đã được quy định tại tại Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, với quy định: “Không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó (trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục, thể thao, những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của Tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án bị tuyên án)” lại vô tình tạo ra cách hiểu là việc sử dụng hình ảnh cá nhân không cần có sự đồng ý mà chỉ cần không được đăng, phát tán ảnh, không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó. Có thể thấy, quy định hiện nay của Luật Báo chí là khá rườm rà và không chặt chẽ, thống nhất với Bộ Luật dân sự. Nhóm tác giả cho rằng, pháp luật nên quy định lại rõ ràng hơn bằng việc tách bạch hai trường hợp cụ thể, trường hợp cần có sự đồng ý và trường hợp không cần có sự đồng ý, gọi là những ngoại lệ. Theo đó, pháp luật báo chí nên sửa lại thành:

"1. Việc đăng, phát hình ảnh cá nhân phải được người đó đồng ý.

2. Được phép đăng, phát hình ảnh trong các trường hợp sau mà không cần thiết có sự đồng ý:

- Trường hợp vì lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước, bảo vệ pháp luật và ngăn chặn những hành vi trái pháp luật.

- Các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao.

Trường hợp tìm thân nhân của nạn nhân, người đã bị khởi tố hình sự hoặc đang chấp hành hình phạt tù giam, những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của Tòa án những người phạm tội trong các cụ trọng án đã bị tuyên án.

- Các trường hợp khác mà pháp luật quy định.

3. Không được đăng, phát tán hình ảnh trong các trường hợp sau:

- Miêu tả tỉ mỉ những hành động dâm ô, chém giết rùng rợn; hình ảnh về vụ án và hành động tội ác, tranh, ảnh khỏa thân và có tính chất khiêu dâm, thiếu thẩm mỹ, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam

- Đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó.

- Những trường hợp khác mà pháp luật quy định.”

3.3. Cần có quy định của pháp luật về quyền đưa tin về người nổi tiếng trong lĩnh vực báo chí

Giới hạn quyền đưa tin về người nổi tiếng là vấn đề cần thiết phải được pháp luật điều chỉnh. Người nổi tiếng hiện nay là một trong những mối quan tâm lớn của công chúng cũng như là một trong những thông tin mà báo chí thường xuyên cập nhật và cần thiết cung cấp cho bạn đọc. Chính vì vậy, nên cần thiết pháp luật phải có những quy định hướng dẫn cụ thể quyền đưa tin về người nổi tiếng trên báo chí.

Khoản 2 Điều 31 Bộ luật Dân sự và Khoản 2 Điều 38, Điều 26 Bộ luật Dân sự đã xác định trước những trường hợp pháp luật có quy định khác về sự đồng ý của cá nhân khi người khác sử dụng hình ảnh, thông tin về đời tư, họ tên của họ. Và việc người khác khi sử dụng các thông tin, hình ảnh, họ, tên của người nổi tiếng không nhất thiết phải có sự đồng ý của họ cũng được xem là một trong những trường hợp pháp luật có quy định khác đó. Cho nên, về cơ bản, trong văn bản pháp luật cao nhất điều chỉnh trực tiếp về quyền cá nhân đối với hình ảnh là Bộ luật Dân sự không cần có những thay đổi chỉnh sửa đề phù hợp với quy định này.

Đối với các văn bản dưới luật, nên có một hướng dẫn cụ thể theo nội dung cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng thông tin, hình ảnh của người nổi tiếng mà không nhất thiết phải có sự đồng ý của họ nhằm mục đích thông tin, truyền thông. Mặt khác, đi liền với đó cần xây dựng điều khoản, việc sử dụng những thông tin, hình ảnh người nổi tiếng không cần có sự đồng ý của họ chỉ trong trường hợp đây là những thông tin mang tính chất cơ bản như xuất thân, trình độ, quan điểm chính trị,... và hình ảnh tại những nơi công cộng hay nơi có không gian rộng, nghiêm cấm sử dụng hình ảnh cá nhân tại nơi không gian riêng tư, không gian nhỏ hẹp mang tính cá nhân. Việc xác định trường hợp cụ thể được phép sử dụng hình ảnh của người nổi tiếng này theo quan điểm của luận văn nên tham khảo quan điểm của pháp luật Đức bởi đây là một quy định mở rộng phạm vi sử dụng hình ảnh cá nhân người nổi tiếng của người khác mà vẫn bảo đảm không xâm phạm quyền bí mật đời tư cũng như quyền nhân thân khác.

3.3. Cần bổ sung căn cứ xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí

Việc thiếu những quy định của pháp luật về căn cứ xác định thiệt hại về xâm phạm quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí là lỗ hổng trong quy định của pháp luật. Thực tế, trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại về hành vi vi phạm quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí, Tòa án vẫn xác định thiệt hại về tài sản, về sức khỏe, tính mạng, về danh dự, nhân phẩm, uy tín bị ảnh hưởng do hành vi xâm phạm quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí gây ra. Trong khi đó, những thiệt hại này không phải là những thiệt hại trực tiếp từ việc quyền riêng tư của cá nhân bị xâm phạm. Do đó, nên có những căn cứ xác định thiệt hại do quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí bị xâm phạm để sớm giải quyết vấn đề bồi thường những thiệt hại về tinh thần của chủ thể quyền, ngoài những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị ảnh hưởng như trên.

Theo đó, cần tách bạch yếu tố thiệt hại về tinh thần và thiệt hại về vật chất trong bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí. Trong đó, căn cứ xác định thiệt hại do quyền riêng tư bị xâm phạm có thể là tác động trực tiếp đến tinh thần của chủ thể do quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí bị xâm hại; những chi phí hợp lý khắc phục, hạn chế thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút do quyền riêng tư bị xâm phạm. Và những thiệt hại về vật chất cần có thêm bộ phận hỗ trợ về việc đánh giá, thẩm định thiệt hại trực tiếp do hành vi xâm phạm gây ra và bù đắp những giá trị vật chất thực tế mất đi trong quá trình bị xâm phạm đến khi xử lý triệt để hành vi vi phạm. Vấn đề này hiện nay còn nhiều quan điểm và cần có nghiên cứu cụ thể, chi tiết.

3.4. Cần hoàn thiện quy định pháp luật về phương thức khiếu nại, tố cáo xử lý các hành vi vi phạm quyền riêng tư trên báo chí

Bên cạnh việc bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về pháp luật sự, pháp luật báo chí về thuật ngữ, nội dung các quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí thì việc bảo vệ quyền trước các hành vi vi phạm và xử lý nghiêm minh những sai phạm cũng đóng vai trò rất quan trọng.

Trên cơ sở đánh giá quy định pháp luật về việc xử lý các hành vi vi phạm quyền riêng tư trong lĩnh vực báo chí và bảo vệ quyền trước sự xâm phạm của chủ thể khác, nhóm tác giả có đưa ra một số đóng góp hoàn thiện pháp luật như sau:

Một là, cần có quy định chặt chẽ về việc giải quyết khiếu nại báo chí, bởi đây chính là bước tiền tố tụng đối với một vụ kiện báo chí. Rất nhiều đơn khiếu nại báo chí hiện nay tuy mới là lá đơn đầu tiên, song, nó không chỉ được gửi tới tổng biên tập toà báo, mà đồng thời còn được gửi tới các cơ quan quản lý của báo chí. Những lá đơn như vậy không cho thấy rõ người khiếu nại đang muốn giải quyết theo con đường hành chính hay con đường tố tụng. Cần cụ thể hóa các quy định về việc kiện các nhà báo, toà báo ra trước toà án nhân dân.

Hai là, cần quy định khi một toà báo bị kiện ra toà, bản thân toà báo đó không được tiếp tục đăng bài về những vấn đề mà toà báo đó đang bị kiện, trước khi có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của. Quy định này nhằm tránh gây nhiễu thông tin cho bạn đọc và khó khăn cho công việc xét xử của Toà án. Nó cũng cho thấy rõ sự “thượng tôn pháp luật” của các cơ quan công luận đồng thời cũng là để tránh cho các toà báo bị kiện cả một loạt bài viết, do không tìm được điểm dừng thích hợp.

Ba là, cần quy định khi một bài báo bị kiện và Tòa án đã thụ lý vụ kiện, toà báo cần cung cấp rõ danh tính của tác giả bài báo cho Tòa án dù tác giả có ký bút danh hay ký “tổ phóng viên”, “nhóm phóng viên”. Nếu tòa báo từ chối cung cấp danh tính tác giả, Toà án có quyền coi cá nhân tổng biên tập là tác giả bài báo, bởi có như vậy mới làm rõ được trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại khi có phán quyết của Tòa án nhân dân. Tránh trường hợp Tòa án nhân dân lúng túng, có nhiều điểm trái chiều trong việc thụ lý hồ sơ.

Bốn là, cần quy định về lời cải chính do tòa báo đăng tải theo quyết định, bản án của Toà án là do toà báo viết song phải được người được thi hành án đọc và đồng ý, trước khi đăng tải. Quy định như vậy nhằm hạn chế việc thi hành án của vụ kiện báo chí không được thực hiện một cách thoả đáng và dứt điểm.

3.5. Cần quy định cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của cộng tác viên

Từ Điều 25 đến Điều 27, Luật Báo chí 2016 quy định về nhà báo chưa quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cộng tác viên trong khi thực tế đội ngũ này có số lượng lớn. Khoản 1 Điều 25 “nhà báo là người hoạt động báo chí được cấp thẻ nhà báo” chưa bao quát hết các đối tượng đang thực hiện nghiệp vụ phóng viên trong các cơ quan báo chí, bao gồm những người hoạt động nghiệp vụ dưới 2 năm (chưa đủ điều kiện để cấp thẻ nhà báo), quy định này chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động báo chí. Do đó, các đơn vị báo chí cấp thẻ tác nghiệp cho đội ngũ phóng viên, cộng tác viên chưa đủ điều kiện năm công tác để được cấp thẻ nhà báo. Trong khi Luật Báo chí 2016 không quy định về bất kỳ loại thẻ nào trong hoạt động tác nghiệp của cơ quan báo chí, ngoài thẻ nhà báo. Do vậy, thời gian qua, xảy ra tình trạng nhiều phóng viên, cộng tác viên của các cơ quan báo chí hoạt động tác nghiệp bằng các loại giấy tờ, thẻ dễ nhầm lẫn với thẻ nhà báo, ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín nghề nghiệp của các nhà báo đang hoạt động theo đúng quy định của pháp luật nhằm tiếp cận những thông tin riêng tư bí mật.

Trên cơ sở phân tích bất cập trên, nhóm tác giả có kiến nghị và bổ sung như sau: Trong các điều khoản quản lý nhà báo, phóng viên, Luật Báo chí cần có các văn bản làm rõ việc quản lý quy định cấp thẻ hành nghề đối với các phóng viên chưa đủ điều kiện cấp thẻ Nhà báo. Thẻ phóng viên do cơ quan báo chí quản lý phóng viên cấp và phải căn cứ vào quy định cụ thể về điều kiện cấp thẻ do bằng văn bản pháp lý. Cụ thể, Khoản 1, Điều 25 Luật Báo chí 2016 cần bổ sung: “Nhà báo là người hoạt động báo chí được cấp thẻ nhà báo và thẻ phóng viên theo quy định”.

Tài liệu tham khảo

  1. Hiến pháp 2013
  2. Bộ luật Dân sự 2015
  3. Bộ luật Hình sự năm 2015
  4. Luật Báo chí 2016
  5. Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản về các mức phạt khi vi phạm quy định về nội dung thông tin.
  6. Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện.
  7. Đặng Thị Lưu, “Quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2016.
  8. Lê Đình Nghị , “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2008.
  9. Lê Đình Nghị chủ nhiệm đề tài; Nguyễn Minh Oanh thư ký; Nguyễn Thị Quế Anh, “Quyền nhân thân của cả nhân và bảo vệ quyền nhân thân theo pháp luật dân sự”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường/Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2008.
  10. Lỗ Chí Anh Đức, “Bảo vệ quyền riêng tư cá nhân trong môi trường mạng xã hội ở Việt Nam”, Luân văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2021.
  11. Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học Vietlex, 2015.


[1] Lê Đình Nghị(2008), Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr-53

[2] Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Tr.1068.

[3] Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Tr.1087.

[4] Lê Đình Nghị (2008), Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.65.

[5] Hội thảo “Ranh giới giữa bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và tôn trọng quyền riêng tư của công dân trên báo chí.


(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO