Tăng trưởng GDP năm 2021 đạt mức 2,58%. Ông nhìn nhận như thế nào về mức tăng trưởng này?
Năm nay, GDP của các quốc gia trên thế giới đều được dự báo tăng trưởng trung bình 5-6%, trong khi GDP của Việt Nam chỉ tăng 2,58%. Nếu là những năm trước đây, tình thế sẽ ngược lại, nghĩa là thế giới chỉ tăng 2% trong khi Việt Nam tăng 6-7%. Điều này cho thấy, 2021 là một năm đầy sóng gió đối với kinh tế Việt Nam.
“Sóng gió” mà ông vừa nêu đến từ những ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid-19. Nếu phải phác họa những khó khăn mà nền kinh tế phải hứng chịu, ông sẽ nói gì?
GDP quý 3/2021 của Việt Nam đã giảm tới 6,02% và cũng là mức giảm kỷ lục trong vòng 15 năm kể từ khi Việt Nam thống kê GDP theo quý. Mức sụt giảm này phản ánh nền kinh tế bị tác động mạnh và hàng nghìn người dân đã mất việc làm.
Theo số liệu thống kê của Chính phủ, 60% người dân được khảo sát cho biết đã phải hứng chịu những ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch như mất việc làm hoặc giảm thu nhập trong giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 9/2021. Nguồn cơn của cú sốc này là do làn sóng thứ tư của đại dịch Covid-19 bắt đầu từ cuối tháng 4/2021 buộc Chính phủ phải đóng cửa nền kinh tế, người dân và các doanh nghiệp không thể hoạt động, từ đó dẫn tới những tác động tiêu cực lên kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt mức thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Vậy theo ông, Việt Nam nên làm gì để đẩy nhanh tiến trình phục hồi và đẩy mạnh tăng trưởng cho năm 2022 và những năm tới?
Rõ ràng, phục hồi và tăng trưởng nhanh phụ thuộc rất nhiều vào tình hình đại dịch. Nếu có thể kiểm soát tốt dịch Covid-19, Việt Nam sẽ tiếp tục tiến trình phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, việc kiểm soát đại dịch thời gian tới là không hề dễ dàng khi các đợt dịch luôn rình rập với nguy cơ xuất hiện biến thể mới. Do đó, Chính phủ phải luôn sẵn sàng cho các kịch bản ứng phó thích hợp và linh hoạt.
Tiếp đến là vấn đề cung – cầu. Theo tôi, Việt Nam đã triển khai rất hiệu quả các giải pháp nhằm khôi phục các khu vực sản xuất một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, xuất nhập khẩu đang tăng rất mạnh, thậm chí xuất khẩu còn tăng mạnh mẽ hơn cả năm 2020. Điều này cho thấy phía cung có những tín hiệu tích cực.
Tuy nhiên, vấn đề nằm ở phía cầu. Trong bối cảnh GDP giảm hơn 6% trong quý 3/2021, nhiều người dân mất việc làm, bị giảm thu nhập và cạn sạch tiền tiết kiệm, sức mua của nền kinh tế giảm sút mạnh. Thay vì tăng tiêu dùng hay mua sắm hàng hóa như trước, người dân giờ đây lo lắng hơn về tương lai, tăng giữ tiền hay tiết kiệm. Vì vậy, cầu năm 2021 thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm ngoái. Vậy giải pháp ở đây là gì?
Theo tôi, Chính phủ cần triển khai các biện pháp kích cầu mạnh mẽ hơn nữa. Tin tốt là hiện nay, Việt Nam đang xem xét các gói tài khóa như nhiều quốc gia khác đã thực hiện. Đặc biệt, việc triển khai gói tài khóa này là hoàn toàn khả thi khi dư địa tài khóa của Việt Nam vẫn còn. Tỷ lệ nợ công mới chỉ ở mức 44%, trong khi trần nợ công được Quốc hội thông qua ở mức 60%. Do đó, Việt Nam hoàn toàn có thể tăng vay vốn.
Nếu không đẩy mạnh vay vốn thì Việt Nam cũng có thể tăng chi ngân sách khi dự trữ tiền mặt vẫn ở mức cao. Câu hỏi ở đây là khoản dự trữ tiền mặt này nên được phân bổ như thế nào?
Theo tôi, Việt Nam hãy khởi động lại các chương trình đầu tư công như đã triển khai trong năm 2020 và hỗ trợ cho những người dân bị mất việc làm, giảm thu nhập hay đã cạn sạch tiết kiệm do đại dịch. Bên cạnh đó, nếu Chính phủ không muốn tăng chi ngân sách thì có thể thực hiện giảm thuế và giảm phần đóng góp của người dân để người dân có thêm tiền để chi tiêu.
Như ông đã biết, Quốc hội có phiên họp bất thường vào đầu tháng 1/2022 để thông qua một gói hỗ trợ tương tự như ông đã nêu. Vậy theo ông, Việt Nam có thể phục hồi và trở lại “đường đua” trở thành con hổ châu Á được không?
Tôi tin rằng Việt Nam sẽ lại một lần nữa vươn lên mạnh mẽ như con hổ châu Á. Đã có những tín hiệu tăng trưởng tích cực từ cuối năm 2021 khi các nỗ lực của cả hệ thống chính trị đã mang lại hiệu quả. Chương trình họp Quốc hội vào đầu tháng 1/2022 chính là một dấu hiệu tích cực cho thấy Việt Nam đang kiểm soát tốt tình hình và sẵn sàng triển khai nhiều hoạt động hơn nữa trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, tôi cũng cho rằng, đại dịch phần nào giúp Việt Nam đẩy nhanh tiến trình cải cách một số nội dung mà Việt Nam đặt ra trước đó để có thể vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2045. Chúng tôi ghi nhận và đánh giá cao nhiều cải cách hoặc tư duy về cải cách trong các lĩnh vực như quản lý đầu tư công, phát triển kinh tế và ứng phó với biến đổi khí hậu mà Việt Nam đã và đang triển khai.
Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2022 được Quốc hội thông qua đạt mức 6–6,5%. Theo ông, mục tiêu này có khả thi không khi dịch Covid-19 vẫn diễn biến khó lường?
Theo tôi, nhiệm vụ này hoàn toàn khả thi. Việt Nam sẽ quay lại quỹ đạo tăng trưởng như thời kỳ trước đại dịch nhưng với điều kiện Việt Nam và cả thế giới sẽ không phải trải qua một cuộc khủng hoảng do Covid-19 gây ra. Với vai trò là một nhà kinh tế, tôi không thể dám chắc về điều đó.
Ngoài ra, tôi hy vọng Chính phủ sẽ triển khai chương trình kích cầu nền kinh tế thông qua những chính sách tôi đã nêu ở trên như: tăng chi ngân sách, giảm thuế kích thích tiêu dùng… Nếu thực hiện được các nội dung này, tôi tin rằng Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trở lại như trước đây và thậm chí có thể mạnh hơn nữa, bởi vì Việt Nam có thể bắt kịp thời điểm để quay lại tốc độ tăng trưởng như thời kỳ trước đại dịch.
Vậy theo ông, đâu là những trở ngại khiến Việt Nam có thể không đạt được những mục tiêu này?
Rủi ro lớn nhất chính là rủi ro về tình hình dịch bệnh. Không ai có thể dự báo trước GDP quý 3/2021 giảm sâu như vậy khi dịch bệnh diễn biến căng thẳng. Gần đây, người ta bắt đầu nói về biến thể Omicron và rõ ràng chúng ta chưa thể biết được biến thể này sẽ gây ra những tác động như thế nào tới cuộc sống của người dân và nền kinh tế trong những năm tới đây.
Ngoài ra còn là những rủi ro về kinh tế. Việt Nam là một nền kinh tế mở cửa, do đó nền kinh tế Việt Nam sẽ phụ thuộc vào tình hình của nhiều quốc gia khác trên thế giới. Lĩnh vực xuất khẩu đã trở thành đầu tàu tăng trưởng của Việt Nam trong nhiều năm qua. Nhưng gần đây, IMF hay WB đã hạ dự báo tăng trưởng của Mỹ và châu Âu, sự trầm lắng của kinh tế thế giới cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới xuất khẩu của Việt Nam nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Đó là một trong những rủi ro mà Việt Nam phải đối mặt.
Một rủi ro nữa là vấn đề lạm phát, trong đó chủ yếu là lạm phát nhập khẩu khi giá dầu tăng cao ảnh hưởng tới giá cả nguyên vật liệu sản xuất mà Việt Nam phải nhập khẩu – điều hoàn toàn trái ngược với việc hàng hóa trong nước không tăng do cầu vẫn thấp hơn cung. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng khi cầu tăng lên từ chính sách kích cầu của Chính phủ cũng sẽ tác động tới lạm phát hàng hóa trong nước. Tuy vậy, theo tôi, mức tăng này có thể kiểm soát được nếu Chính phủ có những giải pháp theo dõi kịp thời và sát sao.
Bên cạnh rủi ro như ông đã nêu, đâu sẽ là cơ hội cho kinh tế Việt Nam trong năm 2022?
Theo tôi, vẫn còn đó những cơ hội mà Việt Nam vốn có từ trước tới nay. Việt Nam vẫn là ứng cử viên sáng giá cho việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng sau đại dịch Covid-19 nhờ sức hút lớn từ nguồn lao động có chi phí thấp và các cơ chế ưu đãi thuế.
Việt Nam cũng có thể tận dụng cơ hội từ kinh tế xanh, kinh tế ứng phó với biến đổi khí hậu khi tình trạng ô nhiễm ở các thành phố lớn và tác động từ việc mực nước biển dâng cao ngày càng rõ rệt. Chẳng hạn như năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã triển khai trợ giá cho năng lượng mặt trời và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này.
Theo số liệu của cơ quan quản lý, trong 8 tháng năm 2020, tổng mức đầu tư của Việt Nam vào điện mặt trời cao hơn tổng mức đầu tư của toàn bộ các quốc gia ASEAN hay toàn bộ châu Phi. Điều này cho thấy Việt Nam có tiềm năng về phát triển năng lượng sạch, bởi Việt Nam có thể nhân rộng mô hình đã thực hiện với năng lượng mặt trời cho năng lượng gió, pin và các sản phẩm xanh khác.
Ngoài những cơ hội nêu trên, theo ông, còn có những lĩnh vực nào cũng sẽ đóng vai trò quan trọng cho việc phát triển của kinh tế Việt Nam?
Trong ngắn hạn, các lĩnh vực đóng vai trò quan trọng vẫn sẽ là xuất khẩu và chuyển đổi sang kinh tế xanh. Trong trung hạn, một yếu tố đã từng xuất hiện từ trước đại dịch Covid-19 chính là cầu tiêu dùng trong nước.
Nhìn lại giai đoạn trước đại dịch, sức mua của tầng lớp trung lưu kết hợp với sự phát triển của các doanh nghiệp lớn trong nước chính là yếu tố đóng góp vào tăng trưởng. Thời gian tới, điều này tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế, đó là sự chuyển dịch từ nhu cầu từ thị trường bên ngoài sang nhu cầu trong nước; trong đó, sự gia tăng của tầng lớp trung lưu sẽ tiếp tục kích thích sự tăng trưởng về cả cung và cầu ở Việt Nam.
Trong một cuộc trao đổi mới đây với báo giới, ông đã chia sẻ về việc cân bằng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để kích thích tăng trưởng và hỗ trợ phục hồi kinh tế trong giai đoạn tới. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn làm thế nào để cân bằng giữa hai chính sách này?
Chúng ta đang ở trong thời kỳ khủng hoảng với diễn biến dịch Covid-19 phức tạp; do đó, chúng ta cần hỗ trợ người dân và các doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Để ổn định kinh tế, có hai công cụ hỗ trợ Chính phủ đắc lực trong ngắn hạn là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Như đa phần các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã áp dụng chính sách tiền tệ như giảm lãi suất, giảm chi phí vốn vay và mở rộng tín dụng cho người dân và doanh nghiệp... trong vòng hai năm qua. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ này cũng đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Chẳng hạn như chính sách hỗ trợ chưa thực sự đồng đều, mới chỉ nhắm tới các hoạt động kinh doanh có liên quan tới ngân hàng trong khi ở Việt Nam có ít nhất 50% các hoạt động kinh doanh ngoài ngân hàng.
Hơn nữa, tiền có thể sẽ chảy vào túi những doanh nghiệp sẽ phá sản, các doanh nghiệp không thể trả tiền vay ngân hàng… Đây là một hạn chế lớn khi bắt đầu có những lo ngại rằng rủi ro này ngày càng lớn hơn khi Việt Nam đã triển khai chính sách tiền tệ này được hai năm.
Bởi vậy, Việt Nam cần thận trọng hơn đối với chính sách tiền tệ đã triển khai trong vòng hai năm qua. Nhưng điều này không có nghĩa rằng nên ngừng chính sách tiền tệ, mà vấn đề đặt ra là cần thận trọng hơn, minh bạch hơn về tình hình hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp, hoặc của những người vay vốn trong hệ thống tài chính.
Bên cạnh đó, lạm phát có thể quay trở lại, không chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các quốc gia khác, bởi vậy Ngân hàng Nhà nước cần thận trọng hơn so với thời gian đầu năm 2020.
Còn về chính sách tài khóa, việc bơm tiền vào nền kinh tế, về lý thuyết, có thể thông qua đầu tư cho các dự án, tạo công ăn việc làm, mua bán nguyên vật liệu, hỗ trợ cho các tổ chức nhà nước mua sắm hoặc hỗ trợ tiền mặt cho người dân để kích cầu tiêu dùng. Việt Nam đã triển khai tất cả các hoạt động này nhưng việc thực hiện còn khá rụt rè, thậm chí năm 2021 còn rụt rè hơn năm 2020.
Theo Bộ Tài chính, ngân sách nhà nước dự kiến chi 4% GDP để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, trên thực tế, con số giải ngân chỉ mới khoảng 2,8%. Đáng chú ý, trong số 2,8% này, có tới 1,6% dành cho việc gia hạn thời gian nộp thuế như cho phép doanh nghiệp nộp thuế chậm 3 – 6 tháng. Điều này cho thấy Chính phủ có thực hiện hỗ trợ nhưng vẫn còn ở mức khá khiêm tốn so với nhiều quốc gia khác (như: Nhật Bản, Malaysia, Hồng Kông...).
Ngoài ra, như tôi đã chia sẻ ở trên, Chính phủ vẫn còn dư địa để triển khai chính sách này mạnh mẽ hơn. Song cũng cần nhấn mạnh rằng, không nên sử dụng công cụ này kéo dài mà chỉ sử dụng trong trường hợp cần thiết để kích thích tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn.
Trong bối cảnh Covid-19, chuyển đổi số được coi là một trong giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp và nền kinh tế “vượt dốc” thành công. Theo ông, đâu là những triển vọng cho những năm tới?
Nếu bạn đặt ra câu hỏi này cho tôi vào hai năm trước khi tôi mới tới Việt Nam, tôi sẽ nói rằng Việt Nam đang tụt lại phía sau, không chỉ so với những quốc gia hàng đầu về chuyển đổi số như Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, mà thậm chí so với cả một số quốc gia châu Phi như Kenya, Tanzania. Nhưng giờ đây câu trả lời của tôi đã thay đổi, lý do chủ yếu là vì những tác động của đại dịch Covid-19. Khi người dân không thể di chuyển, hàng hóa bị hạn chế lưu thông, khu vực tư nhân đã cho thấy sự năng động đầy ấn tượng trong việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế không tiếp xúc thông qua việc chuyển đổi số mạnh mẽ.
Hiện nay, có khoảng 60-70% doanh nghiệp đã thực hiện chuyển đổi số. Điều này cũng diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới nhưng không thể phủ nhận sự năng động sáng tạo và khả năng thích ứng của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Một thay đổi đóng vai trò quan trọng là việc Việt Nam đang hướng tới triển khai dịch vụ thanh toán tiền di động (mobile-money) dành cho những người không có tài khoản ngân hàng. Tuy sẽ mất một thời gian nhưng tôi tin rằng đây là hướng đi đúng đắn.
Ông vừa chia sẻ về dịch vụ mobile money, đây cũng là một nội dung thuộc chương trình hỗ trợ chính sách trị giá hơn 200 triệu USD của WB nhằm hỗ trợ Việt Nam phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về chương trình hỗ trợ này?
Sắp tới, WB và Việt Nam sẽ ký kết khoản hỗ trợ chính sách trị giá 220 triệu USD nhằm hỗ trợ Việt Nam phục hồi kinh tế sau đại dịch. Quan trọng hơn con số, điều mà chúng tôi muốn phối hợp để hỗ trợ Chính phủ Việt Nam chính là phát triển dịch vụ thanh toán di động mobile-money.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hợp tác với Chính phủ Việt Nam phát triển toàn diện, bao gồm vấn đề giới, để đảm bảo người dân được tham gia vào nền kinh tế, giảm thiểu tác động của đại dịch Covid và tận dụng các cơ hội trong tương lai. Hơn thế nữa, chúng tôi cũng tập trung vào các nội dung liên quan đến phục hồi xanh để đảm bảo các chương trình và dự án trong tương lai của Việt Nam sẽ chú trọng hơn đến vấn đề biến đổi khí hậu và các rủi ro từ biến đổi khí hậu. Cá nhân tôi rất mong khoản hỗ trợ này sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh tiến trình phục hồi kinh tế và đạt được các mục tiêu đề ra.
Xin ông chia sẻ thêm về những lĩnh vực trọng tâm của WB tại Việt Nam trong năm 2022?
Chúng tôi hy vọng có thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đạt được mục tiêu đã đề ra là trở thành quốc gia có thu nhập cao, thịnh vượng vào năm 2045. Theo tính toán của WB, nếu không chú trọng đến vấn đề biến đổi khí hậu thì tới năm 2045, thu nhập của Việt Nam có thể bị giảm tới 48%. Vì thế, ngay từ lúc này, Việt Nam cần chú trọng tới vấn đề này để tránh lỡ mục tiêu đã đặt ra cho năm 2045.
Tôi cũng hy vọng WB sẽ tập trung hơn vào việc hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế công nghệ cao hơn. Nếu Việt Nam muốn trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045 thì đó phải là nền kinh tế có hiệu quả và sáng tạo hơn rất nhiều. Đó là con đường các nước như Malaysia, Hàn Quốc đã và đang chọn. Trong chặng đường này, WB rất mong được đồng hành với Việt Nam.
Theo đó, chúng tôi sẽ nỗ lực, tập trung đẩy mạnh tăng cường kỹ năng, công nghệ và phổ biến công nghệ để giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được lợi thế về công nghệ và kỹ năng trong tương lai. Từ đó, giúp xây dựng đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân chất lượng cao để hướng tới mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045.