Để phác họa bức tranh về hiện trạng cũng như định hướng chuyển đổi số trong công tác dân tộc, Báo Vietnamnet đã tổ chức Tọa đàm "Chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả công tác dân tộc" chiều ngày 27/10 tại Hà Nội với các khách mời là ông Nguyễn Ngọc Hà, Giám đốc Trung tâm Thông tin, Ủy viên Thường trực Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số của Ủy ban Dân tộc; Ông Nguyễn Phú Tiến, Phó Cục trưởng Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông; Ông Đào Gia Hạnh – Phó Giám đốc Công nghệ, Công ty Cổ phần Hệ thống thông tin FPT (FPT IS).
Phát biểu khai mạc tọa đàm, ông Võ Đăng Thiên, Phó Tổng biên tập Báo VietNamNet nhấn mạnh: Chuyển đổi số (CĐS) là chủ trương lớn mà Chính phủ, Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) là đơn vị chủ chốt triển khai việc này, Bộ TT&TT đã và đang lần lượt tích cực phối hợp, hỗ trợ hợp tác với các ngành, địa phương để đẩy mạnh CĐS.
Ủy ban Dân tộc là một ngành đặc thù gắn với địa bàn đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, đồng bào nghèo, hạ tầng kinh tế - xã hội rất khó khăn
Qua Tọa đàm sẽ giải đáp, cung cấp thông tin để công chúng, lãnh đạo các cấp, ngành, địa phương, nhất là những địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số quán triệt các chủ trương, giải pháp để thực hiện tốt việc CĐS.
Tọa đàm sẽ tập trung trao đổi, phân tích, thảo luận về 3 nội dung chính, đó là: Hiện trạng ứng dụng CNTT trong công tác dân tộc; Những kinh nghiệm, lưu ý khi triển khai chuyển đổi số công tác dân tộc; Định hướng phát triển về chuyển đổi số trong công tác dân tộc.
Vẫn còn nhiều khó khăn đối với việc ứng dụng CNTT trong công tác dân tộc
Tại Tọa đàm, các khách mời tập trung nêu bật nội dung hiện trạng triển khai ứng dụng CNTT trong công tác dân tộc. Trong đó, tuy có những thuận lợi nhưng vẫn còn đó những khó khăn và hạn chế cơ bản đang rất bức thiết hiện nay.
Nói về những khó khăn, ông Nguyễn Ngọc Hà chia sẻ: Cơ cấu của ngành gồm Ủy ban Dân tộc ở Trung ương và Ban Dân tộc ở các địa phương. Cả nước có 53 tỉnh, thành có đồng bào dân tộc sinh sống đông người nên có 53 Ban Dân tộc. Việc ứng dụng CNTT rất hạn chế. Những người làm công tác dân tộc cũng chưa nhận thức được tính quan trọng và hiệu quả của ứng dụng CNTT.
Trong công tác dân tộc, lĩnh vực xây dựng chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc là chính. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác dân tộc có trình độ CNTT hạn chế, nên rất khó khăn trong công tác ứng dụng CNTT cho công tác dân tộc.
"Chúng tôi xây dựng chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) liên quan đến an sinh là chính, còn CNTT chưa được đầu tư nhiều lắm. Do đó, đầu tư cho CNTT, chuyển đổi số còn hạn chế, khó khăn"- ông Hà cho hay.
Ngoài ra, việc CĐS tuy nghe nhiều rồi, nhưng chúng ta cũng hiểu, công tác dân tộc liên quan đồng bào dân tộc, có rất nhiều hạn chế, mà hạn chế lớn nhất là về nhận thức; ngoài ra là khó khăn về kinh tế và nhiều khó khăn khác. Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) đã khó khăn rồi, chưa nói chuyển đổi số.
Trước hết, phải nói đến khó khăn đối với của các cấp lãnh đạo. Vấn đề thứ hai là đồng bào dân tộc là vùng rộng lớn, đối tượng này hạn chế nhiều thứ, liên quan đến khoảng cách, vùng sâu, vùng xa,... những nơi này ứng dụng CNTT đòi hỏi quyết tâm rất cao. Đặc thù đồng bào dân tộc là hạn chế, khó khăn cho ứng dụng CNTT cho công tác chuyển đổi số.
Tuy có những thuận lợi là đồng bào DTTS được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, rất nhiều chính sách hỗ trợ, nhưng chính sách về CNTT chưa nhiều.
Ông Hà cho biết thêm: Vừa rồi xây dựng Đề án 414 "Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2019-2025". Đây là Đề án đầu tiên liên quan CNTT. Đề án này giúp giải quyết rất nhiều việc, liên quan nhiều việc về ứng dụng CNTT cho công tác dân tộc, hỗ trợ đồng bào. Tuy vậy, khi xây dựng, khái niệm CĐS chưa hình thành, mới manh nha, nên chưa tập trung CĐS.
Nói về đặc thù CĐS trong công tác dân tộc, ông Hà cho biết: Đồng bào dân tộc sống phân tán, hiện có 14 triệu đồng bào ở 53/63 tỉnh thành. Mỗi địa phương sẽ có những chính sách riêng hỗ trợ đồng bào, đối tượng là đồng bào. Chính sách tốt bắt đầu từ dữ liệu kinh tế xã hội và dữ liệu bắt đầu từ ứng dụng CNTT.
Đồng bào phân tán, nhất là khu vực biên giới, do đó ứng dụng CNTT để kết nối là rất cần thiết. Do đó triển khai ứng dụng CNTT cho đồng bào cũng cần dựa trên thực tế khó khăn này.
Ngoài ra, khoảng cách giữa đồng bào và miền xuôi chính là khó khăn. Do đó, ứng dụng CNTT giữa các khu vực cũng khác nhau. Ví dụ, miền núi khác vùng biển. Vì vậy, các phần mềm quản lý dữ liệu, xây dựng chương trình ứng dụng cho đồng bào sẽ khác nhau.
Thực tế việc ứng dụng còn nhiều hạn chế, mới dừng lại ở mức ứng dụng CNTT. Để tiến tới Chính quyền số, Chính phủ số thì còn là bước dài. Nhưng đây là sở cứ (CSDL về đồng bào dân tộc) bước đầu cho việc hình thành các bộ chỉ số sau này và các chính sách sẽ bám sát thực tiễn hơn.
"Muốn xây dựng chính sách tốt phải có hệ thống quản lý, vận hành, trong đó CNTT rất cần thiết. Đặc thù liên quan chức năng nhiệm vụ của UBDT và các Ban Dân tộc. Có 2 đặc thù của ngành công tác dân tộc đó là: Xây dựng chính sách cho đồng bào dân tộc; Khoảng cách số giữa đồng bào dân tộc với những dân tộc khác còn rất lớn"- ông Hà nhấn mạnh
Làm sao để DTTS hưởng thụ được lợi ích từ việc ứng dụng CNTT
Và với góc nhìn của một doanh nghiệp đã hợp tác triển khai chuyển đổi số cho nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, ông Đào Gia Hạnh – Phó Giám đốc Công nghệ, Công ty CP Hệ thống thông tin FPT chia sẻ:
Chuyển đổi số bản chất cho các cơ quan nhà nước tập trung vào 2 đối tượng: Các cán bộ nhà nước để thực thi công việc quản lý nhà nước; Đối tượng thụ hưởng - người dân, doanh nghiệp, thụ hưởng thành quả của chuyển đổi số, tiếp cận tốt hơn tài nguyên của xã hội, gia tăng lợi ích trong đời sống.
Trong bài toán chuyển đổi số của công tác dân tộc, câu chuyện đầu tiên liên quan cán bộ cũng giống các Bộ ngành khác. Nhưng vế 2 - thụ hưởng, rất đặc thù. Đồng bào DTTS tiếp cận CNTT rất hạn chế. Triển khai dịch vụ số xuống thì làm sao người ta thụ hưởng được.
Theo góc nhìn cung cấp dịch vụ CNTT thì đó là một đặc thù không giống các ngành khác. Ngành tài chính, người dân dễ hấp thu; ngành viễn thông, người dân dễ mua điện thoại. Còn với công tác dân tộc, làm chuyển đổi số làm sao để người dân tộc thiểu số thụ hưởng được? Tôi tin chúng ta sẽ làm được, dù đó là đặc thù khó khăn.
Thứ hai, khác rất nhiều với chuyển đổi số cho các tỉnh, thành, bộ, ngành. Cho tỉnh thì sẽ hẹp hơn về phạm vi so với chuyển đổi số công tác dân tộc - 53 tỉnh, thành. Phạm vi rất rộng, gồm cả vùng sâu, vùng xa. Còn so với Bộ, ngành thì nội dung lại rất rộng. Chuyển đổi số công tác dân tộc có cả an sinh xã hội, bảo tồn văn hóa, phát triển sinh kế, thậm chí đưa cả TMĐT vào công tác dân tộc.
Rõ ràng chúng ta có thể nhìn thấy vấn đề rất rộng. Chuyển đổi số công tác dân tộc động chạm tới cả giáo dục, an sinh, văn hóa, du lịch, y tế… Trong từng ngành riêng lẻ thì không thể rộng như thế. Công tác dân tộc liên quan tới nhiều vấn đề đời sống của đồng bào dân tộc. Vừa rộng về không gian vừa rộng về nội dung. Sẽ có rất nhiều bài toán về chuyển đổi số trong công tác dân tộc. Đó là những đặc thù, cũng là những khó khăn cần phải giải quyết.
Khó khăn thì nhiều nhưng chuyển đổi số trên thực tế cần bắt đầu từ dữ liệu. Dữ liệu cần có sự thống nhất, tránh cát cứ thông tin. Ngoài ra, các trường dữ liệu mỗi địa phương có sự đặc thù, vì thế công tác thu thập CSDL cũng cần có những đặc thù.
Ngoài ra, công tác đào tạo CNTT cho cán bộ làm công tác dân tộc cần được đẩy mạnh, nhất là khu vực đồng bào. Những cán bộ cơ sở họ đi sâu đi sát với đồng bào, biết đồng bào cần gì. Do vậy, các ứng dụng CNTT thiết thực cho đồng bào phải xuất phát từ chính nhu cầu cơ sở.
Với FPT, hạ tầng thiết bị, dữ liệu (phân tích, các ứng dụng chuyên ngành…) đều có thể hỗ trợ UBDT nói chung, các địa phương nói riêng. FPT nhìn thấy cơ hội hợp tác và tương trợ đồng bào, cán bộ cơ sở.
Giáo trình, cách thức đào tạo FPT có thể chủ động và FPT cam kết hỗ trợ đồng hành cùng UBDT bởi lĩnh vực đào tạo FPT cũng rất có thế mạnh.
Bộ TT&TT sẵn sàng hỗ trợ các cơ quan thực thi công tác dân tộc triển khai chuyển đổi số hiệu quả
Chia sẻ về chương trình CĐS ông Nguyễn Phú Tiến - Phó Cục trưởng Cục Tin học hóa (Bộ TT&TT) nói: Bộ trưởng Bộ TT&TT đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, các cơ quan, đơn vị, địa phương nếu gặp khó khăn trong quá trình triển khai chuyển đổi số thì có thể liên hệ với Bộ, cụ thể là với Cục Tin học hóa để có sự hỗ trợ.
Thời gian qua, Bộ và Cục làm được mấy việc chính, thúc đẩy chuyển đổi số thời gian tới: Tham mưu xây dựng các chương trình, kế hoạch. Đặc biệt chương trình CĐS quốc gia đến 2030. Tại thời điểm viết chương trình, chưa có khái niệm chuyển đổi số rộng rãi như bây giờ. Nhưng sau khi chương trình ra đời, gần như trong các chương trình, nghị quyết đều có chuyển đổi số. Đó là sự đồng hành của Bộ TT&TT từ việc thay đổi nhận thức.
Thứ hai, hiện đã có văn bản hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch chuyển đổi số hàng năm, 5 năm. Về định hướng, chương trình, thể chế, Bộ luôn cố gắng thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số, cố gắng bắt kịp xu thế.
Còn về các hoạt động cụ thể, thời gian qua, Bộ làm việc rất nhiều với các Bộ, ngành, địa phương, đặc biệt đang liên quan thiết yếu tới chuyển đổi số phục vụ người dân, doanh nghiệp, ví dụ như Bộ NN&PTNT; Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT, Bộ GTVT, Viện KSND, Tòa án nhân dân… thúc đẩy chuyển đổi số phục vụ thiết yếu đời sống người dân, doanh nghiệp. Thông qua các buổi làm việc có các chương trình hợp tác rất cụ thể.
Thứ ba, là triển khai trực tiếp các hệ thống. Chúng tôi đang cố gắng thúc đẩy triển khai các nền tảng chung của quốc gia, như nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia, hàng ngày 200.000 giao dịch của cơ quan nhà nước, người dân thay vì phải dùng văn bản giấy khi thực hiện các dịch vụ công, trong đó có cả người dân tộc thiểu số.
Bộ cũng phối hợp các địa phương triển khai thí điểm chuyển đổi số cấp xã: Yên Mô (Ninh Bình), Vi Hương (Bắc Kạn)… Chúng tôi muốn cùng địa phương thí điểm chuyển đổi số cấp thấp nhất của chính quyền để thấy lợi ích, có kinh nghiệm để nhân rộng mô hình lớn hơn. Không thể làm phong trào, khẩu hiệu mãi được. Phải thấy rõ lợi ích của người dân.
Ông Tiến cho hay: Chuyển đổi số tại cấp xã cũng có 3 trụ cột:
Chính quyền số (giao tiếp với người dân qua Zalo, cung cấp dịch vụ trực tuyến, đặc biệt trong thời gian dịch bệnh; cài đặt các hệ thống censor, camera theo dõi các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội… để có thông tin trực tuyến);
Kinh tế số (giúp người dân bán sản phẩm, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa đi lại khó khăn, khó tiếp cận thị trường, qua trung gian thì người dân hưởng lợi rất ít. Vừa rồi người dân xã Vi Hương bán sản phẩm, thuốc gia truyền qua mạng… Trước kia bán thì thu nhập khoảng 1 triệu, sau bán được 4,5 – 5 triệu đồng);
Xã hội số (triển khai các dịch vụ cơ bản nhất, như y tế, kết nối bệnh viện từ cấp thấp lên cấp cao qua telehealth, bác sĩ chẩn đoán bệnh trên quy mô toàn quốc, điều trị cho người dân; ở Yên Mô – Ninh Bình, nếu bác sĩ tư vấn từ xa thì người dân tiết kiệm được 500 triệu đồng/năm. Hoặc về giáo dục, kết nối đường truyền để giáo viên dạy trực tuyến…)
"Chúng tôi cố gắng phối hợp để thay đổi nhận thức, cho thấy chuyển đổi số đem lại giá trị thật. Chúng tôi đã tổng kết và sẽ chia sẻ kinh nghiệm nhân rộng... Để giúp các địa phương đánh giá thì chúng tôi có cẩm nang về chuyển đổi số, có những khái niệm ban đầu. Qua đó, các địa phương có thể biết mình đang ở đâu để phấn đấu trong thời gian tới. Cục sẵn sàng phối hợp làm việc với các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp để thúc đẩy chuyển đổi số, để mọi người dân không ai bị để lại phía sau"- ông Tiến nhấn mạnh.